Lịch sử của biểu tượng cầu cứu SOS
Mã SOS ban đầu không phải mang ý nghĩa
là tín hiệu cầu cứu hằng hải như mọi người vẫn tưởng.
Có rất nhiều bí ẩn và hiểu nhầm
xung quanh sự xuất hiện và ứng dụng của tín hiệu cầu cứu hàng hải này. Hầu hết
mọi người tin rằng biểu tượng “SOS” có nghĩa là “Save Our Ship” (“Hãy cứu tàu
của tôi”). Những người nghiên cứu về lịch sử vô tuyến đều biết rằng tín
hiệu “SOS” là nối tiếp của tín hiệu “CQD”. Vậy tại sao
chúng được sử dụng phổ biến với ý nghĩa như vậy?
Chúng ta biết rằng việc sử dụng
điện tín vô tuyến trở nên dễ dàng nhờ phát minh của Guglielmo Marconi vào những
năm cuối thế kỉ 19. Trước đó, các tàu trên biển ở bên ngoài tầm nhìn gần như bị
cách ly về liên lạc với bờ và các tàu khác. Do vậy những người đánh điện tín phải
sử dụng mã Morse để gửi các tin nhắn. Mã Morse là cách gõ các chữ cái sử dụng
một loạt dấu chấm (tín hiệu ngắn) và gạch ngang (tín hiệu dài).
Biểu đồ của các chữ cái và chữ số trong
mã Morse.
Cho tới năm 1904, có rất nhiều
tàu vượt Đại Tây Dương của Anh được trang bị các bộ liên lạc vô tuyến. Người
vận hành chúng thường là chuyển sang từ
các ngành đường sắt và thư tín. Ở Anh, tín hiệu gửi chung trên đường dây
là “CQ”. Tiếp sau “CQ” sẽ là tín hiệu về thời gian và các
lưu ý đặc biệt từ nơi phát bản tin. Tín hiệu này được áp dụng rộng rãi bởi các
trạm điện tín khắp thế giới. Khi sử dụng “CQ”, mỗi trạm sẽ nhận được
một tín hiệu từ một nguồn phát duy nhất giúp tiết kiệm thời gian và công sức.
Tương tự như vậy, tín hiệu “CQ” cũng ra biển cùng với những người
đánh điện tín đó. Không lâu sau, nó được chấp nhận là tín hiệu “gọi mọi
trạm điện tín” trên biển và trên bờ.
Trong những năm 90, ngành hàng hải sử
dụng bộ liên lạc vô tuyến làm thiết bị để truyền tin.
Năm 1904, công ty Marconi đề xuất
việc dùng mã “CQD” cho tín hiệu cầu cứu. Phần lớn mọi người nghĩ rằng
“CQD” nghĩa là “Come Quick
Danger” (“Tới nhanh có nguy hiểm”) nhưng sự thật không phải
vậy. Đó là một tín hiệu gửi cho mọi trạm (“CQ”) và tiếp theo là
“D” (Distress – Cầu cứu).
Cách hiểu sát nghĩa của tín hiệu này sẽ là “Tất cả các trạm, cấp
cứu.”
Trong Hội nghị Điện tín vô tuyến Berlin năm 1906, chủ đề
về tín hiệu cầu cứu được đưa ra bàn luận một lần nữa. Rất nhiều cuộc tranh luận
đã diễn ra và cuối cùng tín hiệu SOS được sử dụng. Người ta cho rằng tín hiệu 3
chấm, 3 gạch ngang và kết thúc bằng 3 chấm được gửi chung trong một chuỗi sẽ
không thể gây nhầm lẫn.
Trong cuốn Niên giám Điện tín vô
tuyến và Điện thoại của Marconi năm 1918 có ghi: “Tín hiệu này (SOS – ND)
được chấp nhận dựa vào sự đơn giản khi phát sóng cũng như các kí tự không thể
bị nhầm lẫn. Các kí tự này không có gì đặc biệt, và hoàn toàn sai khi có dấu
cách giữa chúng.” Mọi cách biên dịch của SOS như “Save Our Ship” hay “Save Our Souls” (Cứu mạng chúng
tôi) đều không đúng. Sự thật các trạm điện tín khi nhận được tín hiệu này đều
phải ngừng mọi hoạt động truyền tin cho tới khi tình hình khẩn cấp kết thúc và
bắt buộc phải trả lời tín hiệu cấp cứu đó.
Dù tín hiệu “SOS” chính
thức được sử dụng từ năm 1908, việc dùng “CQD” vẫn kéo dài trong
nhiều năm sau đó, đặc biệt là ở Anh, nơi nó được sinh ra. Theo các ghi chép cá
nhân của Harold Bride, sĩ quan vô tuyến thứ 2 và trong nhật kí hải trình của
tàu SS Carpathia thì con tàu Titanic ban đầu sử dụng “CQD” để cầu
cứu. Khi thuyền trưởng Smith ra lệnh phát tín hiệu cầu cứu, sĩ quan thông tin
Jack Phillips gửi tín hiệu “CQD” sáu lần trước khi phát tín hiệu nhận
dạng Titanic là “MGY”. Sau đó, theo lời khuyên của Bride, Phillips
chuyển tín hiệu cầu cứu thành “SOS”.
Lần đầu tiên người Mỹ dùng tín
hiệu “SOS” là vào tháng 8/1909. Điện tín viên T. D. Haubner của tàu
SS Arapahoe gọi cấp cứu khi tàu của anh mất lái gần bãi cạn Diamond, nơi đôi
khi còn được gọi là “Nghĩa trang của Đại Tây Dương”. Tín hiệu này
được đài “HA” ở Hatteras nghe thấy. Vài tháng sau, tàu SS Arapahoe
nhận được tín hiệu “SOS” từ tàu SS Iroquois. Mãi sau này, vào nắm 1912 người Mỹ mới chính
thức áp dụng tín hiệu “SOS” vào quy chuẩn phát song vô tuyến quốc tế.
Phan Hạnh
Theo Boatsafe
Xem thêm :
Nguồn tin: http://ift.tt/1j4dsy6
Đăng ký: Bản tin Pháp luật
0 comments:
Post a Comment