Hồn đại ngàn trong văn hóa người Khơ Mú
Ở Nghệ An, người Khơ Mú sinh sống chủ yếu ở các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, dân số gần 74.000 người, chiếm khoảng 48,9% dân số Khơ Mú ở Việt Nam hiện nay.
Tập quán canh tác nương rẫy và cuộc sống sinh hoạt luôn gắn bó mật thiết với thiên nhiên nên văn hóa của người Khơ Mú luôn mang đậm sắc mầu thiên nhiên, thể hiện sinh động trong đời sống sinh hoạt, trang phục, văn nghệ dân gian và nghề truyền thống của người Khơ Mú.
Hồn đại ngàn trong văn hóa Khơ Mú được thể hiện ngay trong văn hóa dòng họ. Các họ của người Khơ Mú thường mang tên một loài thú, một loài chim hay một thứ cây nào đó. Mỗi dòng họ coi thú, chim, cây ấy là tổ tiên ban đầu của mình và họ kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động, thực vật này. Mỗi dòng họ có huyền thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng họ coi nhau là anh em ruột thịt.
Mỗi bản gồm nhiều gia đình thuộc các dòng họ khác nhau. Mỗi họ có trưởng họ. Người dân bản trong bản đã có phân hoá giàu nghèo. Những dòng họ người Khơ Mú đều mang tên thú, chim, cây cỏ… có thể chia làm 3 nhóm tên họ. Nhóm tên thú gồm hổ, chồn, cầy hương… Nhóm tên chim gồm phượng hoàng đất, chìa vôi, cuốc, bìm bịp… Nhóm tên cây gồm guột, rau dún, dương xỉ… Ngoài ra còn một số họ mang tên vật vô tri như: rọ lợn, môi múc canh.
Nghề thổ cẩm của người Khơ Mú không phát triển như người Thái. Người Khơ Mú thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa để láy thổ cẩm người Thái đem về cắt may thành trang phục truyền thống. Váy, áo, khăn đội đầu (Rơ vớt) của người phụ nữ Khơ Mú tương tự trang phục của người Thái, cho thấy sự tác động mạnh mẽ của văn hóa Thái đối với văn hóa Khơ Mú. Đặc trưng riêng trong trang phục của người Khơ Mú chính là ở màu sắc. Người Khơ Mú xưa thích chọn màu xanh thẫm của đại ngàn. Khăn đội đầu (Rơ vớt) cũng có màu xanh thẫm, trên đó được thêu nhiều hoa văn tinh tế với màu đỏ chủ đạo như những đốm lửa thắp lên giữa rừng sâu – gợi cảm giác nồng nàn, ấm áp.
Ngàn đời gắn bó với đại ngàn, nên nghề đan lát của người Khơ Mú rất phát triển và đạt đến trình độ tinh xảo, những chiếc ghế mây, mâm mây, ép đựng xôi, hay cái bế,…được làm từ cây tre, cây giang, cây nứa hay từ những sợi mây, qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đã trở thành các đồ gia dụng xinh xắn, chất chứa hồn thiêng của đại ngàn. Ngày nay, nghề đan lát đã và đang trở thành nghề mưu sinh của đồng bào dân tộc Khơ Mú.
Ẩm thực của người Khơ Mú cũng khá phong phú và độc đáo. Người Khơ Mú thường ăn xôi, và rất thích món xôi đồ ngô hay sắn. Họ thích ăn những món có vị cay, chua, đắng, các thức ăn nướng có mùi như chẻo ớt (cheo blic) hay chẻo măc khẻn (cheo drong), nậm pịa (grong bria), thịt chua (a chặt), mắm (đẹc), lám nhọc (đong uru)…
Nếu ai đã một lần ghé thăm các bản của người Khơ Mú ở Kỳ Sơn, Tương Dương hay Quế Phong sẽ được đắm mình trong không gian diễn xướng của những lễ hội truyền thống, sẽ cảm nhận được rất rõ về dấu ấn và âm hưởng huyền bí, hoang sơ của đại ngàn qua những điệu múa, làn điệu dân ca hay dàn nhạc cụ phong phú, độc đáo cả hình dáng và âm thanh, như: Tót, Pí Tơm, Ôôm đing, Đao…
Người Khơ Mú có rất nhiều làn điệu dân ca vừa trong trẻo vừa khỏe khoắn với lối hát mang đậm tính sử thi, giầu hình ảnh của cây ngàn, khe suối. Đó là những điệu hát “Tơm” (hát giao duyên) xao xuyến như tiếng chim gù trong mỗi sớm xuân, gọi mưa về cho cây cối nảy lộc đâm chồi, cho mùa màng tươi tốt, cho đôi lứa hẹn hò nên duyên chồng vợ; để được cùng vui chung mảnh nương, vui bếp lửa hồng “Tầm brạ”, như đôi chim cu suốt đời quấn quýt bên nhau.
Hệ thống nhạc cụ vốn rất phong phú của người Khơ Mú hầu hết được làm từ tre, nứa, với những âm sắc độc đáo vừa thăm thẳm như rừng xanh vừa vui nhộn như chính tâm hồn của người Khơ Mú đôn hậu, thủy chung, sống chan hòa giữa thiên nhiên và yêu thích nhảy múa, hát ca.
Các nhạc cụ mang hồn đại ngàn áy có thể đệm cho hát “Tơm” hay hát “Kưn chơ” và có thể làm tiết tấu nhạc nền vui nhộn cho các vũ điệu trong những lễ hội mang tính cộng đồng như “Tẹ cạ grang” (múa cá lượn), “Tẹ rơ vơớt” (múa khăn), “Tẹ muôn pị hâm mệ” (múa mừng năm mới)… Những loại nhạc cụ độc đáo làm từ tre nứa của người Khơ Mú đến ngày nay vẫn còn xuất hiện nhiều trong đời sống của đồng bào Khơ mú ở Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong là “Ôm đing”, “Đao”, “Tót”, “Pí tơm”.
“Ôm đing” nguyên thủy là những ống đựng nước trên nương được làm từ những ống tre, song lại có thang âm vang ấm với chức năng giữ nhịp. Còn “Đao” ban đầu là dụng cụ đuổi chim khỏi về ăn hạt lúa giống trong mùa tra hạt được làm từ những ống nứa, khi đánh lên có những chuỗi âm kép rung vọng thầm thì như gần như xa. “Tót” được chế tác từ tre hay nứa, là loái áo dọc, có 4 hoặc 6 lỗ. Độc đáo nhất trong hệ thống nhạc cụ người Khơ mú là cây Pí Tơm.
“Pí Tơm” là loại sáo dọc, gần giống như “Tót”, với âm sắc độc đáo như tiếng gió vi vu giữa đại ngàn bao la. và có khả năng diễn tả tâm trạng, mô phỏng không gian sống của người Khơ Mú nơi các triền đồi heo hút miền Tây xứ Nghệ. “Pí Tơm” là nhạc cụ chính đệm cho hát “Tơm”, hát “Kưn chơ” và góp âm sắc để dàn nhạc cụ Khơ Mú thêm phong phú cho những màn hát múa tập thể trong các ngày lễ hội, là tiếng nói thẳm sâu của tâm hồn, tình cảm cùng những mong ước tốt đẹp về cuộc sống, tình yêu của người Khơ Mú.
Những nếp nhà sàn được dựng nên từ cây rừng tre, nứa, những bộ khăn, áo xanh thẫm màu rừng, những làn điệu hát dân ca hồn nhiên và trong trẻo như dòng suối ban mai cùng các nhạc cụ mang âm hưởng đại ngàn sâu thẳm và thân thương. Hồn của đại ngàn sẽ mãi là niềm tự hào về bản sắc văn hóa độc đáo của người Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An – những con người đôn hậu, thủy chung luôn biết làm đẹp cho cuộc sống, làm đẹp tâm hồn mình từ những điều tưởng chừng như bình dị song vô cùng quý giá mà ngàn xanh đã ban tặng. Đại ngàn bao la, vô tận và thân thương không chỉ đem lại cho người Khơ Mú nguồn sống bao đời mà còn góp phần quan trọng làm nên dấu ấn văn hóa vô cùng độc đáo, riêng có của người Khơ Mú ở miền Tây xứ Nghệ.
Vi Hợi – Nguyễn Duy
Xem thêm :
Nguồn tin: http://ift.tt/1igbEi7
Đăng ký: Bản tin Pháp luật
0 comments:
Post a Comment